Mục lục
Mô tả
- Cây nhỏ, xanh tốt quanh năm, có thể cao đến 2m. Thân nhẵn, không gai, ít phân nhánh, mang nhiều vết sẹo to, màu xạm.
- Lá to, mọc so le, kép lông chim 2 – 3 tầng, dài 20 – 40cm; lá chét có răng cưa nhọn, đôi khi chia thuỳ, gốc và đầu thuôn nhọn, có mùi thơm khi vò nát; cuống lá dài, phát triển thành bẹ to ở phần cuối.
- Cụm hoa mọc ở ngọn thành hình chùy ngắn mang nhiều tán; lá bắc rộng, sớm rụng; hoa nhỏ, màu lục nhạt hoặc trắng xám; đài 5 răng hầu liền, mép uốn lượn; tràng 5 cánh hình trái xoan; nhị 5, chỉ nhỏ ngắn; bầu hạ, 2 ô.
- Quả đẹp, hình trứng rộng, màu trắng bạc.
- Mùa hoa quả: tháng 4 – 7.
Cây dễ nhầm lẫn:
Nhiều loài khác cũng mang tên đinh lăng, nhưng không được dùng làm thuốc:
1. Đinh lăng lá tròn (Polyscias balfouriana Baill.)
Lá kép thường chỉ có 3 lá chét trên một cuống dài, lá chét hình tròn, đầu tù.
2. Đinh lăng lá răng hay đinh lăng lá răng (Polyscias ilicifolia (Merr.) Baill.)
Lá kép có 11 – 13 lá chét; lá chét hình mác có răng cưa to và sâu.
3. Đinh lăng trổ hoặc đinh lăng viền bạc (Polyscias guilfoylei Baill.)
Lá kép có 7 lá chét; lá chét thường có viền trắng.
Loài này lại có 2 thứ là:
- Polyscias guilfoylei Baill. var. lacinata Baill.
- Polyscias guilfoylei Baill. var. victoriae Baill.
Phân bố, sinh thái
Chi Polyscias Forst. & Forst. f. có gần 100 loài trên thế giới, phân bố rải rác ở vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới, nhất là một số đảo ở Thái Bình Dương. Ở Việt Nam có 7 loài đều là cây trồng (I. Grushvitzky, N. Skvortsova, Hà Thị Dung & N. Arnautov, 1985).
Đinh lăng có nguồn gốc ở vùng đảo Polynésie ở Thái Bình Dương. Cây được trồng ở Malaysia, Indonesia, Campuchia, Lào… Ở Việt Nam, đinh lăng cũng có từ lâu trong nhân dân và được trồng khá phổ biến ở vườn gia đình, đình chùa, trạm xá, bệnh viện… để làm cảnh, làm thuốc và làm gia vị.
Đinh lăng là loài cây ưa ẩm và có thể hơi chịu bóng, trồng được trên nhiều loại đất; thậm chí với một hòn đất rải ít trong chậu non, vẫn có thể sống được theo kiểu cây cảnh bonsai. Trồng bằng cành sau 2 – 3 năm cây cho hoa quả. Chưa quan sát được cây con mọc từ hạt.
Đinh lăng có khả năng tái sinh vô tính khoẻ. Với một đoạn thân hoặc cành cắm xuống đất đều trở thành cây mới.
Cách trồng
Đinh lăng được trồng phân tán ở khắp nơi, để làm cảnh, lá làm gia vị, rễ làm thuốc. Hiện nay, một số nơi đã bắt đầu trồng đinh lăng ở quy mô sản xuất thử (1000 – 2000 m²).
Đinh lăng được nhân giống bằng cành. Trong dân gian, khi trồng một vài cây trong chậu, trong bồn, góc sân, góc vườn… người ta chỉ cần lấy một đoạn thân cành cắm xuống đất là được. Nếu trồng lớn, chọn cành bánh tẻ có đường kính 1 – 1,5 cm, cắt thành đoạn dài 5 – 7 cm, giâm trong cát ẩm (70%). Sau 7 – 10 ngày, hom giống này nảy mầm và sau 1,5 – 2 tháng thì ra rễ ngoài. Cành giâm lúc đầu nên rải rơm để giữ ẩm. Thực tiễn thấy rằng, rễ nay nhỏ và chất lượng kém hơn rễ phát sinh từ gốc cắt tái sinh. Tuy nhiên, chiết tái sinh của đinh lăng ra rễ rất chậm. Để lý do này, tại sao đinh lăng lâu được thu hoạch. Vấn đề này đang được nghiên cứu để tìm giải pháp khắc phục.
Đất trồng đinh lăng cần nhiều mùn, tầng canh tác sâu, tơi xốp, cao ráo, thoát nước và tiện tưới. Sau khi làm đất, nên khử trùng trước khi trồng bằng luống, mỗi cây con rãnh trồng với khoảng cách 0,8 x 0,6m. Mỗi gốc cây, cần bón lót 3 – 5 kg phân chuồng hoai. Có thể trồng từng được quanh năm, nếu là nơi đất thấp nên trồng vào tháng 5 – 6 và vùng cao tháng 7 – 8. Khi trồng cần bón lót kỹ để hạn chế thoát hơi nước, giúp cây nhanh hồi phục. Cây ưa trồng và ưa ẩm nên không để khô quá khi mới trồng.
Từ giữa mùa xuân đến mùa thu, nhổ tỉa cây sinh trưởng mạnh, cần bón thúc cho cây. Dùng nước phân chuồng, nước giải pha loãng, phân vi sinh hoặc NPK liều lượng tùy mức độ sinh trưởng của cây.
Đinh lăng không có sâu bệnh nghiêm trọng. Cây trồng sau 7-10 năm mới được thu hoạch. Cây càng già, năng suất và chất lượng rễ càng cao.
Bộ phận dùng
Rễ củ thu hái vào mùa thu, lúc này rễ mềm, nhiều hoạt chất, rửa sạch. Rễ nhỏ để nguyên, rễ to chỉ dùng vỏ rễ. Thái rễ mỏng, phơi khô ở chỗ mát, thoáng gió để đảm bảo mùi thơm và phẩm chất. Khi dùng, để nguyên hoặc tẩm rượu gừng 5%. Sao qua, rồi tẩm 5% mật ong, sao thơm.
Thành phần hóa học
Vỏ rễ và lá đinh lăng chứa saponin, alcaloid, các vitamin B₁, B₂, B₆, vitamin C, 20 acid amin, glycosid, alcaloid, phytosterol, tanin, acid hữu cơ, tinh dầu, nhựa nguyên vỏ vỏ lượng và 21,10% đường. Trong lá còn có saponin triterpen (1,65%), một genin đã xác định được là acid oleanolic.
Từ lá đinh lăng, Trung tâm Sâm và Dược liệu thành phố Hồ Chí Minh thuộc Viện Dược liệu đã phân lập được 5 hợp chất polyacetylen là panaxynol, panaxyodol, heptacosa – 1,8 (E) – dien – 4,6 diyne – 3,10 diol, heptacosa – 1,8 (E) – dien – 4,6 diyne – 3 – 1 00 – 10 và heptadeca – 1,8 (Z) – dien – 4,6 diyne – 3 – 01 – 10.
Hai hợp chất sau chỉ có trong lá đinh lăng mà chưa thấy trong các cây khác thuộc chi Panax và họ Araliaceae. Trong rễ đinh lăng cũng tìm thấy 5 hợp chất polyacetylen, nhưng chỉ có panoxyodol, panaxynol và heptadeca – 1,8 (Z) – dien – 4,6 diyne – 3,10 diol là trùng hợp với các chất trong lá.
Lá chét này có tác dụng kháng khuẩn mạnh và chống một số dạng ung thư.
Tác dụng dược lý
Đinh lăng có các tác dụng:
- Tăng lực trên động vật thí nghiệm và trên người. Thân và lá cũng có tác dụng tăng lực nhưng yếu hơn so với rễ.
- Bổ, làm tăng cân đối với động vật và người. Thân và lá cũng có tác dụng này, nhưng yếu hơn.
- Làm tăng hiệu lực điều trị của chloroquin trong bệnh sốt rét thực nghiệm trên động vật.
- Tăng co bóp tử cung và tăng tiết niệu.
- Tác dụng an thần và ít độc.
Đinh lăng đã được nghiên cứu và chứng minh có tác dụng nội tiết kiểu oestrogen.
Nước sắc đinh lăng có tác dụng kháng đối với trùng roi Euglena viridis, trùng tiêm mao Paramecium caudatum và một số động vật nguyên sinh khác trong nước ngâm rơm và nước ao. Nước sắc đinh lăng còn có tác dụng chống choáng phản vệ ở mức độ vừa. bảo vệ được 60% chuột lang qua cơn choáng.
Dựa theo kinh nghiệm dân gian, đinh lăng được áp dụng điều trị bệnh nhân bị amp cấp. Sau 10 ngày, hết triệu chứng lâm sàng, và sau 16 ngày xét nghiệm lại, trong phân đã hết amip thực bào, hết kén.
Đinh lăng có tác dụng kháng Entamoeba histolytica. Làm ức chế bào thành kén và có tác dụng kích thích miễn dịch gây chuyển dạng lympho bào trong thử nghiệm nuôi cấy in vitro.
Đinh lăng đã được nghiên cứu tác dụng kích thích miễn dịch không đặc hiệu trong thí nghiệm gây mẫn cảm chuột nhắt bằng hồng cầu cừu. Sau đó 5 ngày, mô lách tế bào lách và vi rút kháng nguyên trong môi trường Eârm sốt tế bào tạo màng dung huyết và thấy đinh lăng thể hiện tác dụng kích thích miễn dịch mạnh. Đã thử tác dụng chống trầm uất theo nghiệm pháp “trạng thái thất vọng” và thấy đinh lăng có tác dụng giảm “trạng thái thất vọng”, chống trầm uất.
Trong thí nghiệm trên động vật được uống đinh lăng cũng như trong thí nghiệm in vitro, t3 tổ chức nào hoặc gan với dịch chiết đinh lăng và sau đó định lượng hoạt độ men MAO, thấy đinh lăng có tác dụng ức chế mạnh hoạt độ men MAO ở não và gan.
Đinh lăng còn có tác dụng giảm chung lượng cholesterol trong máu gây theo cơ chế nội sinh bằng Tween 80.
Dịch chiết đinh lăng còn được thử tác dụng đối với ATPase màng tế bào, và thấy K⁺ Na⁺ ATPase đều được kích thích bởi dịch chiết thân, rễ và lá của cây.
Đối với ATPase dạng hoà tan, kết quả tương tự như ATPase của màng tế bào. Sự kích thích hoạt tính men của dịch chiết đinh lăng có khả năng ức chế bằng sự kìm hãm K⁺ Na⁺ ATPase của amiazin. Đinh lăng còn có tác dụng kích thích sinh dục ở động vật và kích thích tăng sinh hư ở động vật gây mệt mỏi, tác dụng kéo dài và bền vững.
Tính vị, công năng
Rễ đinh lăng có vị ngọt, tính bình. Lá vị nhạt, hơi đắng, tính bình. Dược liệu có tác dụng bổ 5 tạng, tiêu thực, tiêu sưng viêm, giải độc, bổ huyết, tăng sữa.
Công dụng
Rễ đinh lăng được dùng làm thuốc bổ tăng lực, chữa cơ thể suy nhược, gầy yếu, mệt mỏi, tiêu hoá kém, phụ nữ sau khi đẻ ít sữa. Có nơi còn dùng chữa ho, ho ra máu, đau tử cung, kiết lỵ và làm thuốc lợi tiểu, chống độc.
Lá chữa cảm sốt, mụn nhọt sưng tấy, sưng vú, dị ứng mẩn ngứa, vết thương (giã đắp). Thân và cành chữa thấp khớp, đau lưng. Ngày dùng 1 – 6g rễ hoặc 30 – 50g thân cành dạng thuốc sắc. Có thể dùng rễ khô tán bột hoặc rễ tươi ngâm rượu uống.
Ở Ấn Độ, đinh lăng được dùng làm thuốc làm săn và trị sỏi. Rễ và lá sắc uống có tác dụng lợi tiểu chữa sỏi thận, sỏi bàng quang, chứng khó tiểu tiện. Bột lá được giã với muối và đắp trị vết thương.
Bài thuốc có đinh lăng:
1. Chữa mỏi mệt, biếng hoặc đau lưng:
Rễ đinh lăng phơi khô thái mỏng 5g. Thêm 100ml nước, đun sôi trong 15 phút, chia 2 – 3 lần uống trong ngày.
2. Chữa sốt lâu ngày, nhức đầu, ho khò, ho, đau, tức ngực, nước tiểu vàng:
Đinh lăng tươi (rễ, cành) 30g, lá hoặc vỏ chanh 10g, vỏ quýt 10g, sả nõi (rễ, lá, cành) 20g, lá tre tươi 20g, cam thảo dây hoặc cam thảo đất 30g, rau má tươi 30g, chua me đất 20g. Các vị cắt nhỏ, nổ ngập nước, sắc đặc lấy 250ml, chia uống 3 lần trong ngày.
3. Chữa sưng vú:
Cành lá đinh lăng tươi 30 – 40g. Thêm 300ml, sắc còn 200ml, uống nóng. Ngày uống 1 – 2 lần.
4. Thuốc lợi sữa:
Lá đinh lăng tươi 50 – 100g, bọc hông lớn 1 cái. Băm nhỏ, trộn với gạo nếp, nấu cháo ăn.
5. Chữa đau tử cung:
Cành và lá đinh lăng rửa sạch sao vàng, sắc uống thay chè.
6. Chữa mẩn ngứa do dị ứng:
Lá đinh lăng 80g, sao vàng, sắc uống. Dùng trong 2 – 3 tháng.
7. Chữa thiếu máu:
Rễ đinh lăng, hạ thổ ủ, đậu đen, hoàng tinh, mỗi vị 100g, tam thất 20g. Tán bột, sắc uống ngày 100g.
8. Chữa viêm gan mạn tính:
Rễ đinh lăng 12g, nhân trần 20g, ý dĩ 16g; chi tử, hoài sơn, biển đậu, rễ cỏ tranh, xa tiền tử, ngũ gia bì, mỗi vị 12g; uất kim, ngưu tất, mỗi vị 8g. Sắc uống, ngày một thang.
9. Chữa liệt dương:
Rễ đinh lăng, hoài sơn, ý dĩ, hoàng tinh, hà thủ ô, kỳ tử, long nhãn, cam nếp, mỗi vị 12g; cao bọ cạp, cao ban long, mỗi vị 8g; sa nhân 6g. Sắc uống, ngày một thang.
10. Chữa sốt rét:
Rễ đinh lăng, sài hồ, mỗi vị 20g; rau má 16g; lá tre, cam thảo nam, mỗi vị 12g; bán hạ sao vàng 8g. Sắc uống.
Nguồn: Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam
Thông tin về các cây dược liệu rất đây đủ. hình ảnh về các cây đẹp. Là kho tài liệu phong phú, kì công. xong hình ảnh về cây Đinh lăng chưa đúng loài như đã ghi. Đây là hình cây Đinh lăng lá dáng (Polyscias filicifolia)
Chào bạn! Hình ảnh cây đinh lăng là loài Polyscias ịrmicosa (L.) Harms.
Loài Polyscias filicifolia bạn đang đề cập đến có kích thước là dài hơn, số lượng lá chét nhiều, mép lá nhỏ dài, có nhiều thùy và răng cưa hơn loài Polyscias ịrmicosa (L.) Harms.
hình cây ở chậu là Đinh lăng loài (Polyscias filicifolia)