Nguồn gốc và tính chất
- Duyên đơn có thể chế biến bằng cách oxy hóa chì (Pb) hay chế từ một chì oxyt gọi là mátsicô (massicot). Tùy theo nhiệt độ khác nhau ta có thể được mật đà tăng hay duyên đơn.
- Duyên đơn là một chất bột màu đỏ sẫm tươi, nặng được dùng làm thuốc và trong kỹ nghệ sơn, thủy tinh, tráng men V.V..
- Nhân dân Trung Quốc và nhân đân ta đã biết dùng từ lâu. Duyên đơn thấy được ghi trong “Thần nông bản thảo” là bộ sách thuốc cổ nhất của Trung Quốc. Trong bộ “Nam dược thần hiệu” của Tuệ Tĩnh (Việt Nam) cũng đã ghi.
Thành phần hóa học
- Thành phần chủ yếu của duyên đơnD là chì oxyt Pb3O4 hoặc có thể viết 2PbO.PbO2.
Công dụng và liều dùng
- Tây y không dùng duyên đơn để uống vì độc.
- Thường chỉ dùng để chế thuốc cao, dán mụt nhọt (emplastra), còn dùng làm bột pha sơn màu đỏ, kỹ nghệ nấu chùy tinh v.v..
- Theo tài liệu cổ duyên đơn là một vị thuốc có vị cay, tính hơi lạnh và không độc; uống trong có tác dụng long đờm, chấn tâm, bôi ngoài thì đuổi được độc và làm cho mau lên da non. Thường dùng chữa nôn ọe, ăn vào nôn ra, trừ nhiệt độc, cầm máu, thổ huyết, khái huyết, nhưng gần đây ít dùng hơn. Những người hư hàn, không thực nhiệt không dùng được.
- Liều dùng uống hàng ngày là 1 đến 2g dưới hình thức thuốc bột hay viên.
- Tuy nhiên cần dùng cẩn thận, thời gian dùng ngắn, tránh nhiễm độc do chì.
Đơn thuốc có duyên đơn dùng trong đông y
Đơn thuốc chữa mất ngủ do sợ mà tim hồi hộp, kinh giản (của Trương Trọng Cảnh): Duyên đơn 3g, long cốt 5g, mẫu lệ 20g, phục linh 10g, quế chi 3g, bạch thược 5g, cam thảo 3g, sài hồ 4g, hoàng cầm 5g, nhân sâm 3g, bán hạ 5g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.