Thành phần hóa học
- Năm 1958, hệ dược Viện y học Bắc Kinh đã phân tích một số mẫu phục long can thấy có nhiều ion Fe3+, Fe2+, một ít Ca2+và CO32.
- Theo những tài liệu phân tích cũ, trong phục long can có axít silicic, nhôm ôxyt, sắt ôxyt, một ít magiê ôxyt, kali, canxi.
Công dụng và liều dùng
- Phục long can là một vị thuốc chỉ thấy dùng trong đông y. Theo tài liệu cổ phục long can có vị cay, tính hơi nóng (ôn) không có độc, vào 2 kinh tỳ và vị, có tác dụng ôn trung, cầm nôn, cầm máu. Thường được dùng làm thuốc chữa bệnh băng huyết, thổ huyết, tiểu tiện ra máu, làm ấm ở trong (ôn trung) chữa nôn đặc biệt thích hợp với nôn mửa của phụ nữ có thai, trẻ con đái dầm. Nếu bị ung nhọt thì hòa phục long can với dấm đắp vào. Liều dùng hằng ngày, 20 đến 40g dưới dạng thuốc sắc, đợi thuốc lắng xuống, chắt lấy nước mà uống.
- Khi không có phục long can, người ta có thể lấy ít hòn gạch hay hòn ngói nung đỏ lên, hòn gạch hay ngói đang nóng đỏ nhúng ngay vào nước, rồi lấy nước đó đun sôi lên mà uống.
Đơn thuốc có phục long can dùng trong nhân dân
- Phụ nữ có thai nôn mửa:Phục long can 50g, nước 300ml, sắc còn 20ml, để trong, lọc lấy nước cho uống làm nhiều lần (một thầy thuốc trong quân đội Nhật đã chữa nhiều cho phụ nữ có thai nôn mửa dùng thuốc gì của tây y cũng không khỏi, sau dùng phục long can sắc uống như đơn trên thì hết).
- Trẻ con đái dầm:Phục long can tán nhỏ 8g, chu sa 4g, xạ hương 0,03g, tất cả tán nhỏ viên bằng hạt đậu xanh. Mỗi tối cho uống 2 đến 4 viên.