Hình ảnh cây rong mơ
Rong mơ hay rau mơ. (Sargassum hoặc Herba Sargassi) là toàn tảo rửa sạch phơi hay sấy khô của nhiều loài tảo khác nhau như dương thê tái Sangassum fusiforme (Harv). Setch., Hải khảo tử Sargassum pallidum (Turn. C. Ag.) hoặc một loài tảo Sargassum sp. Khác đều thuộc họ Rong mơ Sargassaceae.
Mô tả cây
- Rong mơ là các loại tảo sống ở biển. Tảo rong cấu tạo bởi sợi phân nhánh non như “thân” màu nâu, mang những bộ phận mỏng và dẹt non như “lá” kích thước thay đổi tùy theo loài Sargassum fusiforme dài 7-40 cm, loài Sargassum pallidum dài 30-100cm, đường kính “thân” loài S. fusiforme chỉ đạt 1-4mm, trong khi loài S. pallidum đạt 2cm.
- “Lá” có khi hình trụ dài 3,5-7cm (S. fusiforme) hay vừa hình sợi, vừa hình phiến lá (S. pallidum) dài tới 25cm, rộng 2-2,5cm, có mép răng cưa thô, trên mặt có những điểm đen. Rải rác trên toàn tảo có những bộ phận hình dạng giống “quả” thực ra đó chỉ là những “phao” trong chứa đầy không khí giúp cho tảo đứng thẳng trong nước biển. Phao có kích thuớc to nhỏ tùy theo loài. Có loài chỉ nhỏ bằng hạt gạo, có loài phao to bằng hạt tiêu. Có khi hình thoi (dương thể thái) ở đầu “thân”, có khi ở nách “lá” và hình cầu (S. pallidum). Ngoài mặt phao cũng có những chấm đen.
Phân bố, thu hái và chế biến
Rong mơ mọc hoang ở khắp miền Duyên Hải nước ta, thường mọc bám trên những dãy núi đá ngầm ven biển, nhiều nhất ở Vĩnh Linh, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Nam Hà, Ninh Bình, Thái Bình, Quảng Ninh cũng có, nhiều khi mọc thành dải dài tới hàng chục km, rộng 2-3km. Còn mọc ở bờ biển nhiều nước khác. Riêng nước ta, hằng năm có thể thu hoạch tới 400-500 tấn. Mùa thu hoạch từ tháng 3 đến tháng 9. Đem về rửa sạch đất cát, rửa hết mặn phơi hay sấy khô.
Thành phần hoá học
Trong rong mơ có từ 10-15% muối vô cơ (trong đó có rất nhiều iốt 0,3 đến 0,8%, asen, kali), 1-2% lipit, 4-5% prôtit và rất nhiều algin hay axit alginic.
Công dụng và liều dùng
- Từ lâu, rong mơ được dùng trong y học cổ truyền với tên hải tảo.
- Tài liệu cổ ghi về hải tảo như sau: Vị đắng, mặn, tính hàn vào ba kinh can, vị và thận. Có tác dụng tiêu đờm, làm mềm chất rắn, tiết nhiệt lợi thủy dùng chữa bướu cổ, thủy thũng. Người tỳ vị hư hàn, có thấp trệ không dùng. Tác dụng ngược với cam thảo. Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc.
- Hiện nay ta dùng làm thuốc chữa bướu cổ (tán nhỏ dập thành viên iotamin chứa 50-70 microgam iốt – ngà dùng 2 đến 4 viên luôn 3-5 tháng), nguyên liệu chế biến iốt, alginate dùng trong công nghiệp hồ vải sợi.