Mô tả
- Cây to, cao đến 20m hay hơn, vỏ màu xám mốc. Thân cành hình trụ, nhẵn.
- Lá kép lông chim chẵn, mọc so le gồm 4 – 6 đối lá chét mọc đối (thường là 4), gốc tròn, đầu tù hơi nhọn, mép nguyên, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt.
- Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùy phân nhánh, ngắn hơn lá; hoa nhiều màu trắng, đài có 4 răng nhỏ; tràng 4 cánh khum lòng máng, nhị hàn liền thành ống bao quanh nhụy; bầu nhẵn.
- Quả nang hình cầu, vỏ cứng, màu xám bẩn khi chín và nứt làm 4 mảnh; hạt dẹt có cánh mỏng bao quanh.
- Mùa hoa: tháng 5 – 7; mùa quả: tháng 8 – 10.
Phân bố, sinh thái
Chi Khaya A.Juss. ở Việt Nam hiện chỉ có một loài xà cừ, chủ yếu là cây nhập nội. Loài này còn có một thứ (varietas) là Khaya senegalensis var. quadrivalvis Pell., cũng là cây gỗ, được ghi nhận mọc tự nhiên trong rừng kín thường xanh tại một số khu vực như Nghệ An.
Cây xà cừ có nguồn gốc từ châu Phi, đặc biệt là khu vực Senegal. Ở Việt Nam, xà cừ được người Pháp đưa vào từ thế kỷ XIX và được trồng phổ biến để làm cây bóng mát và lấy gỗ.
Xà cừ là loài cây gỗ ưa sáng, có khả năng sinh trưởng nhanh trong điều kiện khí hậu nhiệt đới, phù hợp với nhiều vùng sinh thái ở nước ta.
Bộ phận dùng
Bộ phận dùng của cây xà cừ trong y học cổ truyền bao gồm:
- Lá: Thường dùng để nấu nước rửa ngoài da hoặc giã đắp tại chỗ.
- Vỏ thân: Có tài liệu ghi nhận được dùng làm thuốc, tuy nhiên ít phổ biến hơn so với lá.
Thành phần hoá học
Xà cừ chứa chất đắng meliacin (một dạng limonoid) vỏ chứa quinon 2,6 n – lienzoquinon gây dị ứng, scopoletin, β – quereitrin và rutin [Phạm Hoàng Hộ, (2006), Cây có vị thuốc ở Việt Nam, tr.338].
Tác dụng dược lý
Tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm: Cao chiết ethanol từ lá xà cừ cho thấy khả năng ức chế sự phát triển của cả vi khuẩn Gram dương và Gram âm.
Tác dụng chống viêm: Trong y học dân gian Senegan, vỏ thân cây xà cừ được giã nát rồi xoa lên da để chữa sưng tấy, viêm da và các biểu hiện ban đỏ.
Tác dụng lợi tiểu: Chiết xuất cao từ vỏ thân cây xà cừ có tác dụng lợi tiểu trên chuột cống trắng, làm tăng đáng kể lượng nước tiểu, cho thấy hiệu quả trong hỗ trợ đào thải qua đường tiết niệu.
Công dụng
Trong y học cổ truyền, cây xà cừ thường được sử dụng dùng ngoài da là chủ yếu. Tại Việt Nam, nhân dân thường dùng lá xà cừ nấu nước đặc để rửa vùng da bị ghẻ, sau đó dùng bã lá xát nhẹ lên chỗ tổn thương để hỗ trợ điều trị ghẻ lở. Ngoài ra, lá non của cây xà cừ giã nát, trộn với rượu, hơ nóng rồi đắp lên vùng vú sưng đau để giảm sưng viêm.