Tạp chí Khoa học 2011:19a 149-155 Trường Đại học Cần Thơ
Huỳnh Kim Diệu và Lê Thị Loan Em
Mục lục
TÓM TẮT
30 mẫu Chó Đẻ Thân Xanh (CĐTX) và 30 mẫu Cỏ Mực thu thập ở nhiều tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, được điện di protein bằng phương pháp SDS-PAGE và thử hoạt tính kháng khuẩn (xác định nồng độ ức chế tối thiểu MIC) trên 8 chủng vi khuẩn Staphylococcus aureus, Streptococcus faecalis, Escherichia coli, Pseudomonas aeruginosa, Salmonella spp. và Aeromonas hydrophila, Edwardsiella ictaluri và Edwardsiella tarda. Kết quả cho thấy hoạt tính kháng khuẩn của các dòng CĐTX và Cỏ Mực trên các chủng vi khuẩn thử nghiệm không giống nhau. CĐTX chia 7 nhóm nhưng tất cả các dòng đều tác động rất mạnh trên Edwardsiella tarda (MIC = 64-512 µg/ml), kế đến Aeromonas hydrophila (MIC=512-1024 µg/ml); các dòng Cỏ Mực đều có khả năng tác động trên các vi khuẩn thử nghiệm và có thể chia làm 3 nhóm và đều tác động mạnh trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây Cỏ Mực còn gọi là cây Nhọ Nồi, thường được dùng cầm máu bên trong và bên ngoài, chữa ho ra máu, lao phổi lỵ ra máu; cũng được dùng chữa ho, bỏng, chống viêm nhiễm trong các trường hợp cảm sốt, cúm, ban sởi, nhiễm khuẩn đường hô hấp, trị mụn nhọt, viêm cơ lở ngứa, đau mắt, sưng răng, đau dạ dày; điều
trị nấm da, eczema, vết loét, viêm da; (Võ Văn Chi et al., 1999).
Cao lỏng lá Cỏ Mực đã được dùng điều trị bệnh nhân bị viêm âm đạo do tạp khuẩn, do nấm và Trichomonas, và được cho có độc tính rất thấp, giới hạn an toàn rộng, cầm máu tốt, trong vài trường hợp cá biệt, tác dụng này của Cỏ Mực thể hiện rõ rệt hơn cả tác dụng của vitamin K (rõ rệt trong các trường hợp suy gan).
Hình ảnh cây Cỏ mực (Bên trái) – Cây Chó đẻ thân xanh (Bên phải)
Bên cạnh đấy, cây Chó đẻ thân xanh (CĐTX) cũng là cây mọc hoang như cây Cỏ Mực và cũng được dân gian sử dụng rất nhiều để bảo vệ gan, làm giảm mức độ xơ gan, sát khuẩn (đắp các vết thương sưng tấy và loét, mụn nhọt, lở ngứa ngoài da, trị lỵ, bệnh lậu), các bệnh của hệ niệu – sinh dục, và đái tháo đường. Thuốc có tác dụng lợi tiểu trị sỏi mật và sỏi thận, chống oxy hóa và độc tính thấp, có độ an toàn cao.
CĐTX cũng có tác dụng gây hạ đường máu, hạ áp và lợi tiểu ở người (Đỗ Huy Bích et al., 2004). Tác dụng nổi bật nhất của cây CĐTX là chữa suy gan; chứng viêm gan vàng da hay xơ gan cổ trướng (Trần Xuân Thuyết, 2003). Hai cây thuốc này đã được sử dụng nhiều trong dân gian, tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào cho biết sự thuần chủng của hai cây này. Để góp phần tìm hiểu về những cây thuốc này, nghiên cứu về sự thuần chủng của cây Cỏ Mực và Chó đẻ thân xanh được thực hiện. Mục đích từng bước chọn lọc ra những dòng có hoạt tính cao.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM
2.1 Vật liệu
- CĐTX và Cỏ Mực: sử dụng toàn cây (trừ rễ).
- Cây hoang dại được thu hái ở một số huyện thuộc tỉnh An Giang, Hậu Giang, Tiền Giang và Cần Thơ.
Các chủng vi khuẩn được sử dụng: Staphylococcus aureus (Staph.), Streptococcus faecalis (Strep.), Escherichia coli (E.coli), Pseudomonas aeruginosa (Pseu.), Salmonella spp.(Sal.), Edwardsiella
tarda (Ed. tarda ), Aeromonas hydrophila (A. hydrophila) và Edwardsiella ictaluri (Ed. ictaluri).
2.2 Phương pháp thí nghiệm
- 2.2.1 Điện di protein
- 2.2.2 Thử hoạt tính kháng khuẩn
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Sự đa dạng về di truyền
Trong 30 mẫu CĐTX và 30 mẫu Cỏ Mực bằng phương pháp điện di protein SDSPAGE phát hiện được CĐTX có 18 dãy băng protein và Cỏ Mực có 10 dãy băng protein có sự khác biệt (Hình 1 và Hình 2).
Những thông số biểu thị sự đa dạng về di truyền của CĐTX và Cỏ Mực được trình bày qua Bảng 1.
Qua kết quả Bảng 1 cho thấy tỉ lệ cá thể đa hình của CĐTX và Cỏ Mực lần lượt là 0,11% và 0,1%, tỉ lệ băng protein đa hình là 0,4% và 0,07%, và số allele hiệu quả SENA = 2,42 và 1,52, rõ nhất là chỉ số chỉ đa dạng về kiểu gen HEP = 0,71 và 0,6 và đa dạng về kiểu hình Ho = 5,31 và 2,61.
Như vậy, cây CĐTX và Cỏ Mực không thuần chủng mà gồm nhiều dòng (line), nhưng cùng loài (species). Theo Rao et al. (1992), kết quả cấu trúc những dãy băng protein giữa các dòng trong cùng loài có khác biệt nhưng vẫn tiêu biểu cho mỗi loài và giữa các loài, khi điện di bằng SDS-PAGE sẽ cho các dãy băng protein khác nhau về số lượng lẫn trọng khối.
Dựa vào kết quả điện di protein cho thấy CĐTX có 8 dòng và Cỏ Mực được chia làm 11 dòng khác nhau.
Thử hoạt tính kháng khuẩn
Các cây có sự khác biệt các dãy băng protein, được trồng trong cùng điều kiện chăm sóc sau 4 tháng, lá các nhóm cây này được thử hoạt tính kháng khuẩn, kết quả được trình bày qua bảng 2 và bảng 3.
Qua bảng 2, cho thấy hoạt tính kháng khuẩn của các dòng CĐTX trên các chủng vi khuẩn thử nghiệm không giống nhau (chỉ có dòng 4 và 5 giống nhau), nhưng tất cả các dòng đều tác động rất mạnh trên Edwardsiella tarda (MIC = 64-512 µg/ml), kế đến Aeromonas hydrophila (MIC=512-1024 µg/ml) và cùng tác động yếu trên
Streptococcus faecalis và E. Coli (MIC= 2048- 4096 µg/ml).
Kết quả bảng 3 cho thấy các dòng Cỏ Mực đều có khả năng tác động trên các vi khuẩn thử nghiệm và có thể chia làm 3 nhóm (dòng 1 giống dòng 6; dòng 2 giống dòng 3; dòng 4, 5, 7, 8, 9, 10, 11 giống nhau). Các dòng Cỏ Mực đều tác động rất mạnh trên Edwardsiella tarda (MIC=256-512 µg/ml), kế đến Edwardsiella ictaluri
(MIC=512 µg/ml), Staphylococcus aureus và Aeromonas hydrophila (MIC=1024- 2048 µg/ml).
Sự đa dạng về di truyền của cây CĐTX và Cỏ Mực cũng ảnh hưởng đến hoạt tính kháng khuẩn của chúng với sự khác biệt chỉ số MIC. Kết quả điện di giúp chọn lọc dòng có hoạt tính kháng khuẩn mạnh trên vi khuẩn thử nghiệm.
Theo kinh nghiệm dân gian đã sử dụng CĐTX để trị liên cầu, tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn bạch hầu, (Đỗ Huy Bích et al., 2004); dùng Cỏ Mực phòng trị nhiễm khuẩn, làm chóng lành vết mổ trong phẫu thuật, tác dụng tốt trong nhiễm khuẩn đường hô hấp, trị mụn nhọt, viêm da, dùng ngoài làm thuốc sát trùng vết thương và vết loét ở gia súc.
- Như vậy kết quả MIC đã giải thích được sử dụng hiệu quả các cây CĐTX và Cỏ Mực trong trị bệnh của dân gian.
- Bên cạnh đấy còn phát hiện các cây thuốc này có khả năng tác động rất tốt trên vi khuẩn gây bệnh trên cá là Edwardsiella tarda gây áp xe gan thận, gây bệnh trên tôm càng xanh (Quinn, 1994), Edwardsiella tarda còn lây nhiễm từ cá sang người gây tiêu chảy, viêm hệ thống niệu, viêm màng não, viêm nội tâm mạc, viêm dạ dày ruột, áp xe vòi trứng, áp xe vùng chậu; gây nhiễm khuẩn dạ dày ruột, viêm ruột già, áp xe ở gan và bệnh kiết lỵ ở người (Janda et al., 1991).
- Edwardsiella ictaluri gây bệnh nhiễm trùng máu, bệnh gan thận mủ ở cá tra và Aeromonas hydrophila gây bệnh đốm đỏ trên cá. Các mầm bệnh này đã kháng rất nhiều kháng sinh mạnh và gây thiệt hại đáng kể cho các nhà nuôi trồng thủy sản (Tu Thanh Dung et al., 2008).
Mặt khác, việc sử dụng kháng sinh điều trị đã gây chi phí cao và sự tồn dư kháng sinh trong sản phẩm thủy sản ảnh hưởng đến sức khỏe con người, còn là rào cản các doanh nghiệp Việt Nam trong xuất khẩu. Do đó, phát hiện khả năng kháng các vi khuẩn gây bệnh trên cá của cây CĐTX và Cỏ Mực sẽ góp phần không nhỏ trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản.
Thông qua kết quả điện di protein cũng đã giúp chọn lọc dòng CĐTX và Cỏ Mực có hoạt tính kháng khuẩn cao. Các dòng có hoạt tính cao này hy vọng sẽ là tiềm năng thay thế kháng sinh trong tương lai.
KẾT LUẬN
Chó đẻ thân xanh và Cỏ Mực đều không thuần chủng, chúng có nhiều dòng (Chó đẻ thân xanh 8 dòng và Cỏ Mực có 11 dòng) và các dòng này có sự khác biệt về hoạt tính kháng khuẩn, các dòng Chó đẻ thân xanh và Cỏ Mực đều có khả năng tác động trên vi khuẩn thử nghiệm, đặc biệt tác động rất mạnh trên vi khuẩn gây bệnh động vật thủy sinh (Chó đẻ thân xanh mạnh nhất trên Edwardsiella tarda, Cỏ Mực tác động mạnh nhất trên Edwardsiella ictaluri).