Ba Kích là loại cây chịu bóng, sinh trưởng tốt kể cả ở vùng đất nghèo dinh dưỡng, vùng có độ tàn che thấp (0,3-0,5). Phân bố khắp ở các tỉnh Bắc bộ, những nới có nhiệt độ mùa lạnh 8-25 độ C và mùa nóng từ 25-38 độ C,lượng mưa hàng năm trên dưới 2.000mm, đất ẩm, thoát nước tốt như: Quảng Ninh, Hòa Bình, Lạng Sơn, Bắc Giang, Hà Giang…
Mục lục
Thông tin về cây Ba kích
Ba kích (còn gọi là Ba kích thiên, Dây ruột gà) có tên khoa học Morinda officinalis How, thuộc họ Cà phê (Rubiaceae). Đây là loài cây dây leo, sống lâu năm, thường mọc hoang ở các vùng đồi núi phía Bắc nước ta. Cây có thân mềm, màu tím, khi non có lông, về già nhẵn dần. Lá mọc đối, hình mác hoặc bầu dục thuôn nhọn, mặt lá cứng, mép và gân có lông, khi già mặt dưới chuyển màu trắng mốc, cuống ngắn. Hoa mọc thành chùm ở đầu cành, lúc mới nở màu trắng, sau chuyển hơi vàng, tràng hoa hình ống ngắn, có 4 nhị. Quả hình cầu, mọc riêng lẻ, khi chín chuyển đỏ, trên đỉnh còn đài tồn tại. Cây ra hoa vào tháng 5–6, đậu quả vào tháng 7–12.
Điểm đặc biệt nhất của ba kích là phần rễ củ xoắn như ruột gà, dài khoảng 15–20 cm, đường kính 1–2 cm, chia thành nhiều đoạn phình ra, tạo hình dáng đặc trưng.
Trong y học cổ truyền, ba kích là vị thuốc quý có nhiều công dụng như bổ thận, trợ dương, mạnh gân cốt, ích tinh, an thần. Thường được dùng trong các bài thuốc điều trị các chứng thận hư, liệt dương, di tinh, mộng tinh, đau lưng mỏi gối, tê thấp, suy nhược thần kinh, mất ngủ, tiểu tiện không tự chủ, kinh nguyệt không đều, tử cung lạnh, lãnh cảm, và hỗ trợ phục hồi sức khỏe cho người cao tuổi, người mệt mỏi, ăn ngủ kém…
Trước đây, ba kích được khai thác tự nhiên với sản lượng lớn hàng chục tấn mỗi năm, chủ yếu từ các vùng rừng núi phía Bắc. Tuy nhiên, do bị khai thác quá mức, nguồn ba kích hoang dại đã trở nên khan hiếm, khiến loài cây này được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (2007).
Hiện nay, trước nhu cầu sử dụng ngày càng cao trong Đông y và thương mại, trong khi nguồn cung tự nhiên suy giảm, việc trồng ba kích không chỉ giúp bảo tồn nguồn dược liệu quý mà còn mở ra hướng phát triển kinh tế bền vững cho bà con vùng cao, góp phần nâng cao thu nhập và phát triển nông nghiệp dược liệu.
Quy trình trồng, chăm sóc Ba kích tím
Nguồn giống và gieo ươm
Ba kích có thể nhân giống bằng hạt hoặc bằng hom.
Tạo cây con từ hạt: Hạt giống nên được lấy từ cây ba kích mẹ đã 5 năm tuổi trở lên, chọn những quả đã chín đỏ, đem ủ trong vài ngày để quả chín mềm, sau đó chà xát, rửa sạch và đãi lấy hạt. Hạt sau khi phơi khô có thể gieo trên khay cát hoặc trên luống, theo hàng cách nhau khoảng 15cm, lấp đất mỏng khoảng 3–5cm, phủ lớp rơm rạ và tưới giữ ẩm thường xuyên. Khi hạt nảy mầm đều, tiến hành nhổ cây con cấy vào bầu. Cũng có thể gieo trực tiếp vào bầu đất có thành phần gồm 78% đất mặt tơi xốp, 20% phân chuồng hoai mục và 2% Supe lân (tính theo khối lượng).
Tạo cây con từ hom: Chọn cây ba kích mẹ khỏe mạnh từ 3 năm tuổi trở lên, lấy đoạn thân từ gốc đến hết phần bánh tẻ, cắt thành đoạn dài 25–35cm, đường kính trên 3mm, mỗi đoạn có từ 1–3 lóng (2–4 mắt), cắt bớt lá nếu có. Cắm hom vào bầu hoặc luống đã chuẩn bị, theo hàng cách nhau 20–30cm, độ sâu cắm 7–10cm. Che bóng nhẹ và giữ ẩm thường xuyên. Sau khoảng 20–25 ngày, hom sẽ ra rễ và nảy chồi. Khi chồi thứ cấp phát triển đạt chiều cao 20–25cm, có từ 5–6 cặp lá trở lên và bộ rễ đã phát triển ổn định, có thể đem trồng ra đất.
Chọn đất trồng
Ba Kích phát triển tốt ở vùng đất ẩm mát, tơi xốp, tầng canh tác dày trên 0,5m, giàu mùn và thoát nước tốt. Cây phù hợp trồng dưới tán rừng tự nhiên, rừng trồng hoặc dưới tán cây ăn quả đã khép tán, với độ tàn che lý tưởng từ 30–50%. Tại những vùng đất trống, nên kết hợp trồng cây che phủ để tạo điều kiện thuận lợi cho cây sinh trưởng.
Làm đất và bón phân
Dọn sạch cục bộ xung quanh hố trồng với đường kính khoảng 1m. Chừa lại các cây lớn làm giá đỡ tự nhiên cho cây leo. Đào hố kích thước 40 x 40 x 40 cm, bón lót mỗi hố với 3–5kg phân chuồng hoai mục trộn cùng 0,2kg supe lân. Khoảng cách giữa các hố trồng là 1,5 x 1,5m hoặc 1 x 2m tùy địa hình.
Trồng cây
Nên trồng vào ngày râm mát hoặc sau mưa, vào vụ xuân hoặc vụ thu. Trộn đều phân với đất trong hố rồi trồng mỗi hố một cây, tháo bỏ bầu nhẹ nhàng, lấp đất kín gốc và nén chặt để giữ cây đứng vững. Sau đó phủ thảm mục, rơm rạ hoặc lá khô lên mặt hố để giữ ẩm và hạn chế cỏ dại.
Chăm sóc
Khi cây phát triển, cần cắm que hoặc tận dụng cây làm giá để cây leo. Tiến hành kiểm tra và trồng dặm những cây bị chết. Thường xuyên làm cỏ, xới đất quanh gốc (bán kính khoảng 0,8m), kết hợp bón thúc bằng phân chuồng hoai hoặc NPK theo định kỳ. Mỗi năm nên phát dọn cây cỏ xâm lấn ít nhất 2 lần. Điều chỉnh độ che phủ tán cây khoảng 40–50% để đảm bảo cây nhận đủ ánh sáng và độ ẩm cần thiết.
Thu hoạch và sơ chế
Cây Ba kích thường được thu hoạch sau khoảng 3 năm trồng – thời điểm mà củ đã phát triển đạt kích thước và hàm lượng hoạt chất dược lý ổn định. Tuy nhiên, nếu có điều kiện để kéo dài thời gian sinh trưởng thêm vài năm, củ Ba kích sẽ càng to, chắc và cho năng suất cùng chất lượng dược liệu vượt trội hơn, đặc biệt là hàm lượng anthranoid, flavonoid và các vi chất quý.
Khi thu hoạch, người trồng tiến hành đào lấy phần củ, tránh làm tổn thương đến thân rễ. Sau khi đào lên, củ được rửa sạch đất cát bằng nước sạch, loại bỏ phần rễ con và tạp chất. Tiếp theo, củ được phơi dưới nắng nhẹ (tránh nắng gắt làm mất dược tính) hoặc sấy khô ở nhiệt độ thấp, ổn định cho đến khi đạt độ khô hoàn toàn, giòn và dễ bẻ gãy. Quá trình làm khô đúng cách không chỉ giúp bảo quản củ Ba kích lâu dài mà còn giữ được tối đa hoạt chất quý có trong dược liệu.
Bảo quản
Sau khi thu hoạch và sơ chế, củ Ba kích cần được bảo quản đúng cách để giữ nguyên hương thơm đặc trưng và dược tính quý giá. Củ khô nên được bao gói kỹ bằng túi kín hoặc bao bì chống ẩm, tránh tiếp xúc với không khí ẩm để ngăn ngừa nấm mốc và côn trùng xâm nhập. Nên bảo quản ở nơi khô ráo, thoáng mát, tránh ánh nắng trực tiếp và nhiệt độ cao. Trong điều kiện tốt, Ba kích khô có thể bảo quản lâu dài mà vẫn giữ được chất lượng.