Cây Khôi Nhung (Ardisia silvestris Pit..) là cây thuốc dân gian dùng để chữa bệnh dạ dày. Rễ khô loài này còn được sắc uống bổ huyết, chữa lỵ ra máu, và đau yết hầu.
Mục lục
1. Đặc điểm hình thái
Khôi Nhung (Ardisia sylvestris Pitard) còn gọi Cơm nguội rừng, Khôi tía thuộc họ Đơn nem (Myrsinaceae), bộ Anh Thảo (Primulalales).
Là cây tiểu mộc cao 0,5-2m, không lông, có thân rễ bò, rỗng xốp, có vỏ màu xám, ít phân nhánh hay không phân nhánh, gần trên ngọn có nhiều lá.
- Lá: mọc so le, phiến lá thon ngược, dài đến 25-40 x 6-12cm, đầu nhọn hoặc tù, giảm dần và men xuống gốc, đáy từ từ hẹp thành cuống có cánh, màu lục sẫm ở trên, nhạt màu hơn ở dưới hoặc có màu đỏ tím, bìa có răng nhọn mịn, đều nhau; có lông màu nâu trên các gân, nhiều hơn ở mặt dưới; gân bên 28-35 đôi, gân cấp 3 hình mạng nổi rõ ở mặt dưới.
Hoa: mọc thành chùm, dài 10-15cm, hoa rất nhỏ, chùm kép ngoài nách lá; cọng hoa 10-12mm; lá đài cao 1,5mm; cánh hoa 3mm, màu trắng pha hồng tím 5 lá đài 5 cánh hoa.
- Lá đài hình tam giác hoặc thuôn, nhọn, hợp ngắn ở gốc, có điểm tuyến và lông mi.
- Cánh hoa màu hồng, hình mác, dài 3mm, đầu tù hoặc nhọn, có điểm tuyến.
- Nhị ngắn hơn cánh hoa, bao phấn hình mác nhọn, chỉ nhị rất ngắn.
- Bầu hình trứng, vòi mảnh, đầu nhụy hình chấm.
Quả: mọng, hình cầu, khi chín màu đỏ, có điểm tuyến, đường kính 7-8mm.
- Hạt 1, hình cầu, lõm ở gốc.
- Tái sinh bằng hạt và chồi.
- Có quả tháng 9-12 và 1-2 năm sau.
2. Phân bố, thu hái và chế biến
- Cây Khôi Nhung ưa bóng, mọc hoang tại những khu rừng rậm miền thượng du, nơi râm mát, tán rừng ẩm, nhiều mùn, ven suối, trong rừng hay ven rừng nguyên sinh ở độ cao 400 – 1200m.
- Các tỉnh Thanh Hóa (Thạch Thành, Ngọc Lạc, Lang Chánh), Nghệ An (Phủ Quỳ), Ninh Bình (Nho Quan, Cúc Phương), Hà Tây (Ba Vì), Lào Cai (Sa Pa), Lạng Sơn (Hữu Lũng), Quảng Ninh, Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hòa Bình, Quảng Nam, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng.
- Ngoài ra cây còn phân bố ở Trung Quốc (Hải Nam, Quảng Tây). Thường hái lá và ngọn vào mùa hạ, phơi nắng cho tái rồi phơi và ủ trong râm.
3. Thành phần hóa học
Các loài thực vật thuộc chi Ardisia họ Myrsinaceae đã được nghiên cứu từ rất sớm trên thế giới. Ngay từ năm 1968, Ogawa Hideko và các cộng sự đã tìm thấy các hợp chất ardisiaquinon A, B, C từ loài Ardisia sieboldi của Nhật Bản.
- Trong nghiên cứu về các hợp chất Triterpene Saponins chiết suất từ Ardisia crispa của Jansakul C. (1986) đã phân lập trong rễ Ardisia crispa có 19 hợp chất tritecpen saponin trong đó 2 hợp chất ardisiacrispin A & B còn được tìm thấy từ loài A. crispa, A. brevicaulis.
- Năm 1987, từ rễ và thân loài A. cornudentata, lần đầu tiên đã phân lập được 2 hợp chất 1,4-benzoquinon trong bài nghiên cứu Quinones từ Ardisia cornudentata của Tian Z .
- Tiếp theo đó ChunPo Chang và cộng sự năm 2010 cũng đã nghiên cứu phân lập gốc rễ Ardisia cornudentata Mez và phát hiện 3 hợp chất mới là: 3-methoxy-2-methyl-5-pentylphenol, 3-methoxy-2-14 methyl-5-(1′-ketopentyl) phenol và cornudoside cùng với 26 hợp chất khác đã được biết đến.
Ngoài ra Viện đông y và Bộ môn dược lý Trường đại học y dược có thí nghiệm sơ bộ trên loài Khôi Nhung (Ardisia sylvestris Pitard) nhưng mới thấy có ít tanin và glucozit. Đây là 2 chất chủ yếu có tác dụng tốt trong việc phòng, ngừa và hỗ trợ điều trị các bệnh về dạ dày.
4. Tác dụng dược lý
Trên cơ sở nghiên cứu của Phạm Bá Tuyến cho thấy Lá Khôi có tác dụng chống viêm, giảm đau, trung hòa acid, chống loét dạ dày, làm lành vết loét dạ dày tá tràng trên thực nghiệm cũng như trên lâm sàng.
Sơ bộ nghiên cứu trên thỏ, chuột bạch và khỉ cũng thấy có một số kết quả sau đây:
- Làm giảm độ axit của dạ dày khỉ, làm giảm nhu động ruột cô lập của thỏ, làm yếu sự co bóp của tim, làm giảm sự hoạt động bình thường trên chuột bạch.
Bệnh viện 108 thử nghiệm dùng trên lâm sàng (mới trên 5 bệnh nhân) thì 4 người giảm đau 80-100%, dịch vị giảm xuống bình thường. Ngoài ra Viện đông y áp dụng lá khôi chữa một số trường hợp đau dạ dày (dùng riêng hay phối hợp với nhiều vị thuốc khác) đã sơ bộ nhận định như sau:
- Với liều 100g lá khôi trở xuống uống hằng ngày thì có thể từ đỡ đau đến hết đau, bệnh nhân ăn được ngủ được.
- Nhưng với liều 250g một ngày thì làm bệnh nhân mệt, người uể oải, da tái xanh, sức khỏe xuống dần nếu tiếp tục uống.
5. Công dụng của Khôi Nhung
Lá khôi còn là vị thuốc chữa đau dạ dày trong nhân dân.
Việc sử dụng này xuất phát từ kinh nghiệm của Phân hội đông y Thanh Hóa dựa trên kinh nghiệm dùng của một vùng dân tộc dùng lá cây này chữa đau bụng. Nhưng bao giờ cũng dùng phối hợp với những vị bồ công anh (Lactuca indica), khổ sâm (Croton tonkinensis).
Đơn thuốc có lá khôi
Hội Đông y Thanh Hoá đã kếp hợp dùng lá Khôi (80g), lá Bồ công anh (40g) và lá Khổ sâm (12g) sắc uống chữa đau dạ dày; có thể gia thêm lá Cam thảo dây (20g). Nhiều địa phương khác ở tỉnh Nghệ An cũng dùng lá Khôi chữa đau dạ dày.
- Lá Khôi được dùng với lá Vối, lá Hoè nấu nước tắm cho trẻ bị sài lở, hoặc giã với lá Vối trộn với dầu vừng đắp nhọt cho trẻ.
- Đồng bào Dao dùng rễ cây Khôi thái nhỏ phơi khô ngâm rượu uống cho bổ huyết, lại dùng sắc uống chữa kiết lỵ ra máu, đau yết hầu và đau cơ nhục.
6. Những bài nghiên cứu loài Khôi Nhung trên thế giới
Các nghiên cứu về cây Khôi Nhung (Ardisia sylvestris Pitard) trên thế giới chưa nhiều và chưa có nghiên cứu chuyên sâu về đặc điểm, thành phần và tính chất dược lý loài này.
Trong cuốn “Thực vật dược châu Á Thái Bình Dương”
- Dược phẩm cho tương lai” của Christophe Wiart (2006) có giới thiệu về dược phẩm từ cây thuốc ở Châu Á Thái Bình Dương với hơn 400 cây dược liệu trong đó có chi Ardisia.
Các nghiên cứu về thành phần hóa học của hai loài thuộc chi Ardisia của Nguyen Ha, Ripperger H, Schmidt J (2007)
- Đã phát hiện được trong lá của Ardisia silvestris có các hợp chất 2-methyl-5-(Z-nonadec-14-enyl) và 5-(Z-nonadec-14-enyl), các diphenol cũng thu được từ rễ của Ardisia gigantifolia.
Nghiên cứu phân lập Antitubercular Resorcinol Analogs và Benzenoid C-Glucoside từ rễ cây Ardisia cornudentata của ChunPo Chang và cộng sự (2010)
- Đã phân lập gốc rễ của Ardisia cornudentata Mez thành ba hợp chất mới và 26 hợp chất khác đã được biết đến
- 13 trong số những hợp chất này cho thấy các hoạt động chống vi trùng, 2 hợp chất cho kết quả chống lại tế bào ung thư.
7. Những bài nghiên cứu loài Khôi Nhung ở Việt Nam
Các nghiên cứu cây Lá Khôi ở Việt Nam trong thời gian qua đã có nhiều bước phát triển. Đặc biệt các nghiên cứu cơ bản về phân bố và tri thức sử dụng loài Lá Khôi trong chăm sóc chữa bệnh.
Nghiên cứu tác dụng của chế phẩm HPmax trong điều trị loét hành tá tràng có Helicobacter pylori của Phạm Bá Tuyến (2014)
- Nghiên cứu kết hợp cây Cao khô Chè dây, Dạ cẩm và Lá Khôi
- Kết quả Hpmax có tác dụng chống loét dạ dày tá tràng, giảm đau, liền sẹo, giảm thể tích dịch rỉ viêm, chống viêm mạn tính.
Kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Tác dụng tốt trong giảm đau, diệt HP và liền sẹo trên bệnh nhân loét hành tá tràng HP (+)
- Hpmax có tác dụng cắt cơn đau với tỷ lệ loại tốt là 33,3%, loại trung bình là 61,9%, loại kém là 4,8%
- Hpmax có tác dụng diệt HP đạt 59,5%
- Hpmax có tác dụng làm liền sẹo với tỷ lệ loại tốt là 68,2%, loại trung bình là 27,3%, loại kém là 4,5%
Nghiên cứu thành phần hóa học loài Ardisia balansana thuộc họ Đơn nem (Myrsinaceae) ở Việt Nam Lưu Tuấn Anh (2013)
- Về thành phần hóa học của các loài trong chi Aridisiakết quả đã thành công trong việc phân lập và xác định cấu trúc hóa học của các hợp chất phân lập được từ lá, thân, rễ cây Ardisia balansana.
Nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học một số loài Ardisia thuộc họ Myrsinaceae ở Việt Nam của Trịnh Anh Viên (2017)
- Đã phân lập và xác định được cấu trúc của 40 hợp chất trong đó có 2 hợp chất mới, 12 hợp chất lần đầu tiên được phân lập từ chi Ardisia
- 16 ngoài ra trong nghiên cứu còn thăm dò các hoạt tính kháng nấm, kháng khuẩn, kháng virut và hoạt tính gây độc tế bào của một số hợp chất phân lập được.
Nghiên cứu nhân giống và trồng thử nghiệm cây Lá khôi tại Vườn Quốc gia Bái Tử Long của KS Nguyễn Đình Ưng năm 2009
- Các nghiên cứu về nhân giống cây Khôi Nhung trong thời gian qua đã ghi nhận nhiều kết quả tích cực.
- Kết quả trong thời gian thực hiện 36 tháng (tháng 10.2009 – 9.2012) đề tài đã nhân giống được 4.000 cây Lá khôi và xây dựng thành công mô hình trồng thử nghiệm cây lá Khôi trên diện tích 1 ha, tỷ lệ sống đạt 92,5%, chiều cao cây trung bình đạt 99,6 cm, đường kính gốc 2,6 cm.
- Đồng thời nhóm thực hiện đề tài cũng đã xây dựng được bản hướng dẫn kỹ thuật nhân giống và trồng cây lá Khôi.
- Kết quả thu được của đề tài đã góp phần bảo tồn nguồn gen loài cây dược liệu quý này tại Vườn Quốc gia Bái Tử Long.