Hiện nay, nhiều dược liệu đang bị trộn lẫn thật giả và bán tràn lan trên thị trường gây nên khó khăn trong sử dụng. Sau đây là một số trường hợp nhầm lẫn thường gặp trên thực tế được xếp thành nhóm để các nhà nghiên cứu, thầy thuốc cũng như bệnh nhân cảnh giác, tránh nhầm lẫn khi sử dụng.
Mục lục
- Nhóm nhầm lẫn do hình dạng của cây hoặc các vị thuốc giống nhau
- Nhóm nhầm lẫn do chế biến làm thay đổi hình dạng ban đầu
- Nhầm lẫn do thay thế tuỳ tiện các loại thuốc
- Nhầm lẫn do trùng tên gọi
- Nhầm lẫn do chưa xác định được nguồn gốc thực vật
- Nhầm lẫn do cố ý giả mạo
- Nhầm lẫn do một số người nghiên cứu, sử dụng thiếu hiểu biết, hoặc quan tâm chưa đúng mức về nguồn gốc dược liệu
Nhóm nhầm lẫn do hình dạng của cây hoặc các vị thuốc giống nhau
Sa nhân
Vị thuốc Sa nhân (Fructus Amomi) là quả gần chín đã bóc vỏ và phơi khô của cây Sa nhân và một số loài khác trong chi Amomum. Vị thuốc này thường được trộn lẫn với quả bóc vỏ của một số loài Ðậu khấu thuộc chi Alpinia.
Thăng ma
Vị thuốc Thăng ma (Rhizoma Cimifugae) là thân rễ của một số loài Thăng ma. Hiện nay trên thị trường bị giả mạo bằng rễ cây Strobilanthes forrestii Diels., khó phân biệt với vị thuốc Thăng ma bằng mắt thường, có thể phân biệt bằng cách soi bột dưới kính hiển vi.
Vị thuốc Thăng ma
Nhóm nhầm lẫn do chế biến làm thay đổi hình dạng ban đầu
Hoàng đằng
Vị thuốc Hoàng đằng (Caulis et Radix Fibraureae) là thân và rễ phơi sấy khô của cây Hoàng đằng (Fibraurea recisa Pierre và Fibraurea tinctoria Lour.) nhiều khi bị lẫn lộn hoặc thay thế hẳn bằng thân cây Vàng đắng (Coscinium fenestratum Colebr.). Dược liệu để nguyên dễ phân biệt, khi chế biến, thái lát khó phân biệt hơn.
Hà thủ ô đỏ
Hà thủ ô đỏ (Radix Fallopiae multiflorae) là rễ củ phơi hay sấy khô của cây Hà thủ ô đỏ (Fallopia multiflora (Thunb.) , họ Rau răm (Polygonaceae). Một số trường hợp bị trộn lẫn thân rễ các loài thuộc chi Dioscorea, Smilax được chế biến để có hình dáng bên ngoài tương tự Hà thủ ô đỏ.
Vị thuốc Hà thủ ô đỏ
Nhầm lẫn do thay thế tuỳ tiện các loại thuốc
Sài hồ
- Sài hồ (Radix Bupleuri) là rễ phơi hay sấy khô của cây Bắc Sài hồ (Bupleurum chinense DC.) hoặc cây Hoa nam Sài hồ, còn gọi là Hồng Sài hồ (Bupleurum scorzonerifolium Willd.), họ Hoa tán (Apiaceae).
- Trên thực tế ta sử dụng Sài hồ nhập từ Trung Quốc, hoặc thay thế bằng rễ cây Lức (Sài hồ nam) (Pluchea pteropoda Hemsl.), họ Cúc (Asteraceae) hay thậm chí bằng thân và rễ cây Cúc tần (Pluchea indica (L.) Less.). Chưa có công trình nghiên cứu nào khẳng định sự thay thế như vậy là hợp lý.
Mộc thông
- Vị thuốc Mộc thông (Caulis Clematidis) là thân leo đã phơi hay sấy khô của cây Tiểu mộc thông (Clematis armandiiFranch.), hoặc cây Tú cầu đằng (Clematis montana Buch. Ham. ex DC.) họ Hoàng liên (Ranunculaceae).
- Vị thuốc Mộc thông ta nhập từ Trung Quốc ít khi đúng theo quy định (Ở Trung Quốc dụng vị Mộc thông lấy từ hơn 10 loài thuộc các họ: Mộc hương (Aristolochiaceae), Hoàng liên, Lạc di (Lardizabalaceae). Vị thuốc Mộc thông nam trên thị trường thường khác nhau về nguồn gốc thực vật, không đồng nhất về hình thái bên ngoài cũng như thành phần hoá học.
Hoài sơn
- Hoài sơn (Rhizoma Dioscoreae persimilis) là thân rễ đã chế biến, phơi sấy khô của cây Củ mài (Dioscorea persimilis Prain et Burkill), trên thị trường hầu hết Hoài sơn không chế từ Củ mài mà chế từ Củ cọc, Củ cái… ngay cả các cơ sở trồng, sản xuất dược liệu hiện nay cũng trồng Củ cọc, Củ cái. Chưa có tài liệu nào chứng minh các loại củ đó có thể thay thế Hoài sơn.
Hoài sơn
Nhầm lẫn do trùng tên gọi
Nhiều cây thuốc có tên gọi giống nhau một phần hoặc giống hoàn toàn dẫn đến nhầm lẫn.
Mộc hương
- Mộc hương (Radix Saussureae lappae) là rễ phơi hay sấy khô của cây Mộc hương còn gọi là Vân mộc hương, Quảng mộc hương (Saussurea lappa Clarke) dùng chữa đau bụng, đầy bụng, tả lỵ, nôn mửa, có thể nhầm với vị thuốc Thanh mộc hương là rễ của cây Aristolochia contorta Bunge hoặc cây Aristolochia debilis Sieb. et Zuncc họ Mộc hương (Aristolochiaceae), có công dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng trừ thống, chữa chứng huyết áp cao.
Bạch phụ tử
- Bạch phụ tử (Radix Aconiti lateralis praeparata) là rễ củ con đã chế biến và phơi sấy khô của cây Ô đầu (Aconitum carmichaeli Debx.), họ Hoàng liên (Ranulculaceae) dùng chữa một số triệu chứng nguy cấp, mạch gần như không có, ra nhiều mồ hôi (thoát dương), chân tay tê mỏi…Nhầm với Bạch phụ tử là rễ củ của cây Typhonium giganteum Engl., họ Ráy (Araceae).
Sâm cau
- Vị thuốc Sâm cau (Rhizoma Curculiginis) là rễ của cây Sâm cau (Curculigo orchioides Gaertn.), họ Sâm cau (Hypoxydaceae) nhầm với rễ cây Cau (Areca catechu L.), họ Cau dừa (Palmaceae)
Đọc thêm: Tác dụng chữa bệnh của cây sâm cau
Nhầm lẫn do chưa xác định được nguồn gốc thực vật
Kê huyết đằng
- Vị thuốc Kê huyết đằng-là thân các loài dây leo khi cắt ngang có các vòng nhựa màu đỏ. Các nghiên cứu cho thấy có khoảng 5-7 loài khác nhau có đặc điểm này. Ví dụ một số loài thuộc chi Millettia, Mucuna, Spatholobus, họ Ðậu (Fabaceae), hoặc cây Sargentodoxa cuneata Rehd. et W., họ Ðại huyết đằng (Sargentodoxaceae).
Vị thuốc Huyết đằng
Nhầm lẫn do cố ý giả mạo
Đan sâm
- Vị thuốc Ðan sâm (Radix Salviae miltiorrhizae) là rễ của cây Ðan sâm (Salvia miltiorrhiza Bunge) dược liệu có mặt ngoài màu đỏ nâu, trên thị trường nhiều khi bị trộn lẫn với những rễ cây khác được nhuộm đỏ.
Tam thất
- Một số người mua Tam thất gừng – thân rễ cây (Stahlianthus thorelii Gagnep), họ Gừng (Zingiberaceae) dưới tên gọi Tam thất, với giá gấp 10-20 lần giá trị thực.
Hồng hoa
- Hồng hoa (Flos Carthami tinctorii) là hoa đã phơi khô của cây Hồng hoa (Carthamus tinctorius L.), họ Cúc (Asteraceae) nhiều khi bị giả mạo bằng một số loài cúc khác đem nhuộm đỏ.
Vị thuốc Hồng hoa
Nhầm lẫn do một số người nghiên cứu, sử dụng thiếu hiểu biết, hoặc quan tâm chưa đúng mức về nguồn gốc dược liệu
Địa cốt bì
- Vị thuốc Ðịa cốt bì (Cortex Licii) là vỏ rễ phơi hay sấy khô của cây Câu kỷ (Licium chinense Mill.) hay cây Ninh hạ câu kỷ (Liciumbarbarum L.), họ Cà (Solanaceae) dùng chữa các triệu chứng ho ra máu, phiền nhiệt tiêu khát, lao nhiệt, ra mồ hôi.
- Trên thị trường hiện nay đang dùng vị thuốc Hương gia bì (Cortex Periplocae) là vỏ rễ cây Periploca sepium Bge., họ Thiên lý (Asclepiadaceae) dưới tên Ðịa cốt bì.
Ý dĩ
- Vị thuốc Ý dĩ (Semen Coisis) là nhân hạt của quả chín đã phơi hay sấy khô của cây Ý dĩ (Coix lachryma-JobiL.), họ Lúa (Poaceae) có tác dụng bồi bổ cơ thể, lợi tiểu tiện, tiêu phù thũng, chữa phong thấp lâu ngày không khỏi.
- Vị thuốc Ý dĩ bắc trên thị trường hiện nay là hạt cây Cao lương (Sorghum vulgare Pers.) – một loại lương thực vẫn được dùng để giả mạo Ý dĩ ở Trung Quốc.
Nguồn: Tạp chí Dược học tháng 12 năm 2002