Nguyễn Xuân Hải, Nguyễn Trung Nhân, Nguyễn Thị Thanh Mai
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, 2(6), tr. 134-138
TÓM TẮT
Solanum procumbens L. là một loài cây thuốc thuộc thuộc họ Cà (Solanaceae). Ở Việt Nam, loài thực vật này được gọi tên là “Cà gai leo”, và được trồng ở Trung Quốc, Lào, Campuchia và Việt Nam. Từ cao ethyl acetate của thân cây Cà gai leo đã được phân lập được một hợp chất anthraquinone (1), bốn hợp chất polyphenol (2-5) và một hợp chất indole (6). Bằng các phương pháp phổ nghiệm hiện đại kết hợp với so sánh tài liệu tham khảo, các hợp chất này lần lượt được xác định là ziganein (1), benzoic acid (2), salicylic acid (3), 4-hydroxybenzaldehyde (4), vanillic acid (5) và indole-3-carbaldehyde (6). Đây là các hợp chất lần đầu tiên được tìm thấy trong chi Solanum.
MỞ ĐẦU
Cà gai leo có tên khoa học Solanum procumbens L. hay Solanum hainanense H., thuộc họ Cà (Solanaceae). Đây là loài cây bụi mọc leo hay bò dài, thường được phân bố ở Trung Quốc, Lào, Campuchia và Việt Nam. Ở nước ta, cây Cà gai leo được tìm thấy ở nhiều nơi như Sơn La, Bắc Giang, Khánh Hòa, Gia Lai, Bình Định, An Giang… [1, 2]
Hình ảnh cây Cà gai leo
Trong dân gian, cây Cà gai leo được sử dụng như thuốc điều trị bệnh viêm gan, xơ gan, đau lưng, đau nhức khớp [1, 2]. Bằng các phương pháp sắc ký và các phương pháp phổ nghiệm, nhiều nhà khoa học trên thế giới đã phân lập được các hợp chất có trong cây cà gai leo như polyphenol, terpenoid, steroid và alkaloid [3, 4].
Bài báo này công bố về việc phân lập và xác định cấu trúc của sáu hợp chất từ cây Cà gai leo là ziganein (1), benzoic acid (2), salicylic acid (3), 4 hydroxybenzaldehyde (4), vanillic acid (5) và indole-3-carbaldehyde (6) (Hình 1).
THỰC NGHIỆM
Mẫu cây Cà gai leo được lấy tại tỉnh An Giang vào tháng 10 năm 2016 và được định danh bởi TS Đặng Lê Anh Tuấn, Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM.
- Từ 4,0 kg mẫu cây cà gai leo khô đã xay nhỏ và được chiết Soxhlet lần lượt với các dung môi có độ phân cực tăng dần thu được các cao phân đoạn tương ứng n-hexane (31,9 g), cao EtOAc (56,3 g), cao MeOH (115,2 g).
- Từ cao EtOAc sắc ký cột pha thường nhiều lần kết hợp với sắc ký bản mỏng điều chế với nhiều hệ dung môi có độ phân cực khác nhau đã phân lập được 6 hợp chất tinh khiết.
- Phổ cộng hưởng từ hạt nhân của các hợp chất này được ghi trên máy Bruker 500 MHz với chất nội chuẩn TMS.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Hợp chất 1 có dạng bột, màu vàng, tan tốt trong dung môi chloroform.
Phổ 1H-NMR của hợp chất 1 cho thấy ở vùng từ trường thấp xuất hiện tín hiệu của 2 nhóm hydroxyl kiềm nối [δH 12,03 (1H; s; 1-OH)] và [δH 12,13 (1H; s; 5-OH)]; 5 proton thơm [δH 7,29 (1H; dd; J = 8,4 Hz; 1,2 Hz; H-2)], [δH 7,67 (1H; t; J = 8,1Hz, H-3)], [δH 7,83 (1H; dd; J = 7,5 Hz; 1,2 Hz; H-4)], [δH 7,11 (1H; d; J = 1,6 Hz; H-6)], [δH 7,67 (1H; d; J = 1,6 Hz; H-8)]. Ở vùng từ trường cao xuất hiện một nhóm methyl [δH 2,47 (3H; s; H-11)] (Bảng 1).
Phổ 13C-NMR cho thấy hợp chất 1 xuất hiện tín hiệu của 15 carbon. Trong đó, ở vùng từ trường thấp xuất hiện 2 carbon carbonyl của nhóm ketone [δC 182.0; C-9], [δC 192,0; C-10]; 2 carbon thơm mang nhóm thế gắn với oxygen [δC 162,3; C-1], [δC 162,8; C-5]; 5 carbon thơm mang nhóm thế [δC 133,3; C-4a], [δC 113,8; C-5a], [δC 149,3; CC7], [δC 133,7; C-8a], [δC 115,9; C-9a]; 5 carbon methine thơm [δC 124,6; C-2], [δC 137,0; C-3], [δC 119,9; C-4], [δC 124,4; C-6], [δC 121,4; C-8]. Ở vùng từ trường cao xuất hiện 1 carbon của nhóm methyl [δC 22,3; C-11] (Bảng 1).
Từ dữ liệu phổ 1D-NMR cho thấy hợp chất 1 có cấu trúc của một anthraquinone.
Phân tích các dữ liệu phổ HSQC và HMBC cho thấy trên khung anthraquinone có 2 nhóm hydroxyl được gắn tại vị trí C-1 và C-5, 1 nhóm methyl gắn tại vị trí C-7
thông qua tương quan HMBC của proton nhóm methyl này với C-7 (Hình 2).
So sánh dữ liệu phổ của hợp chất 1 với hợp chất ziganein cho thất sự tương hợp [5, 6].
Vậy hợp chất 1 là ziganein.
Hợp chất 2 có dạng bột, màu trắng, tan tốt trong dung môi chloroform.
Phổ 1H-NMR của hợp chất 2 cho thấy xuất hiện tín hiệu của 5 proton thơm [δH 8,12 (2H; dd; J = 8,2 Hz; 1,2 Hz; H-2 và H-6)], [δH 7,62 (1H; t; J = 7,4 Hz; H-4), [δH 7,48 (2H; dd; J = 8,2 Hz; 7,4 Hz; H-3 và H-5)] cho biết hợp chất 2 có một vòng benzene với 1 nhóm thế (Bảng 2).
Phổ 13C-NMR của hợp chất 2 cho thấy có sự xuất hiện tín hiệu của 7 carbon. Trong đó có hiện tín hiệu của 1 carbon carbonyl của nhóm acid [δC 171,8; C-7]; 1 carbon thơm mang nhóm thế [δC 129,3; C-1]; 5 carbon methane thơm [δC 133,8; C-4], [δC 130,2; C-2 và C-6], [δC 128,5; C-3 và C-5] (Bảng 2). Tiến hành so sánh dữ liệu phổ của hợp chất 2 với benzoic acid cho thấy sự tương hợp [7,8].
Vậy hợp chất 2 là acid benzoic.
Hợp chất 3 có dạng bột, màu trắng, tan tốt trong dung môi chloroform.
Phổ 1H-NMR của hợp chất 3 cho thấy xuất hiện tín hiệu của 4 proton thơm [δH 7,02 (1H; dd; J = 8,4 Hz; 1,1 Hz; H-3)], [δH 7,53 (1H; td; J = 8,4 Hz; 1,8 Hz; H-4)], [δH 6,94 (1H; td; J = 8,0 Hz; 1,1 Hz; H-5)], [δH 7,93 (1H; dd; J = 8,0 Hz; 1,8 Hz; H-6)] tương ứng với một vòng benzene mang 2 nhóm thế ở vị trí ortho. Ngoài ra còn có sự xuất hiện tín hiệu của một nhóm hydroxyl gắn với vòng benzene [δH 10,39 (1H; s; 2-OH)] (Bảng 2).
Phổ 13C-NMR của hợp chất 3 cho thấy có sự xuất hiện tín hiệu của 7 carbon. Trong đó, ở vùng từ trường thấp có hiện tín hiệu của 1 carbon carbonyl của nhóm acid [δC 174,8; 1-COOH], 1 carbon thơm mang nhóm thế gắn với oxygen [δC 162,2; C-2], 1 carbon thơm mang nhóm thế [δC 111,3; C-1] và 4 carbon methine thơm [δC 117,8; C-3], [δC 136,9; C-4], [δC 119,6; C-5], [δC 130,9; C-6] (Bảng 2). Tiến hành so sánh dữ liệu phổ của hợp chất 3 với salicylic acid cho thấy sự tương hợp [9].
Vậy hợp chất 3 là salicylic acid.
Hợp chất 4 có dạng bột, màu trắng, tan tốt trong dung môi acetone.
Phổ 1H-NMR của hợp chất 4 cho thấy ở vùng từ trường thấp xuất hiện tín hiệu của 4 proton thơm [δH 7,80 (2H; d; J = 8,6 Hz; H-3 và H-5)], [δH 7,01 (2H; d; J = 8,6 Hz; H-2 và H-6). Ngoài ra còn xuất hiện tín hiệu proton của 1 nhóm aldehyde [δH 9,85 (1H; s; H-7)] (3).
Phổ 13C-NMR của hợp chất 4 cho thấy có tín hiệu của 7 carbon. Trong đó, có tín hiệu của 1 carbon carbonyl của nhóm aldehyde [δC 191,0; 1-CHO], 1 carbon thơm mang nhóm thế gắn với oxygen [δC 164,0; C-4], 1 carbon thơm mang nhóm thế [δC 129,8; C-1], 4 carbon methine thơm [δC 132,8; C-2 và C-6], [δC 116.7; C-3 và C-5] (Bảng 3). So sánh dữ liệu phổ của hợp chất 4 với hợp chất 4- hydroxybenzaldehyde cho thấy sự tương hợp [10].
Vậy hợp chất 4 là 4-hydroxybenzaldehyde.
Hợp chất 5 có dạng bột, màu vàng, tan tốt trong dung môi acetone.
Phổ 1H-NMR của hợp chất 5 cho thấy ở vùng từ trường thấp xuất hiện tín hiệu của 3 proton thơm [δH 7,56 (1H; d; J = 1,8 Hz; H-2)]; [δH 6,91 (1H; d; J = 8.2 Hz; H-5)], [δH 7,59 (1H; dd; J = 8,2 Hz; 1,9 Hz; H-6)] cho biết hợp chất 5 có một vòng benzene với 3 nhóm thế ở vị trí 1, 3 và 4. Ở vùng từ trường cao xuất hiện tín hiệu cộng hưởng 3 proton của nhóm methoxyl [δH 3,90 (3H; s; 3-OCH3)] (Bảng 3).
Phổ 13C-NMR của hợp chất 5 xuất hiện tín hiệu của 7 carbon. Trong đó, ở vùng từ trường thấp xuất hiện tín hiệu của 1 carbon carbonyl của nhóm acid [δC 167,5; 1-COOH], 2 carbon thơm mang nhóm thế gắn với oxygen [δC 152,1; C-3],[δC 148,2; C-4], 1 carbon thơm mang nhóm thế [δC 124,9; C-1]; 3 carbon methine thơm [δC 113,7; C-2], [δC 115,6; C-5], [δC 123,1; C-6]. Ở vùng trường cao còn có 1 tín hiệu của nhóm methoxyl [δC 56,5; C-7] (Bảng 3). So sánh dữ liệu phổ của hợp chất 5 với hợp chất acid vanillic cho thấy sự tương hợp [11].
Vậy hợp chất 5 là acid vanillic.
Hợp chất 6 có dạng bột, màu trắng, tan tốt trong dung môi methanol.
Phổ 1H-NMR của hợp chất 6 cho thấy xuất hiện tín hiệu của 4 proton thơm [δH 8.15 (1H; d; J = 8,0 Hz; H-4)], [δH 7,23 (1H; t; J = 8,0 Hz; H-5)], [δH 7,27 (1H; t; J = 8,0 Hz; H-6)], [δH 7,47 (1H; d; J = 8,0 Hz; H-7)] cho biết hợp chất 6 có một vòng benzene với 2 nhóm thế ở vị trí 1 và 2. Ngoài ra, còn có tín hiệu của 1 proton olefin [δH 8,08 (1H; s; H-2); 1 nhóm aldehyde [δH 9,88 (1H; s; H-8)] (Bảng 4).
Phổ 13C-NMR của hợp chất 6 cho thấy xuất hiện tín hiệu của 9 carbon. Trong đó, có 1 carbon carbonyl của nhóm aldehyde [δC 187,4; C-8];1 carbon olefin tứ cấp [δC 118,4; C-3]; 1 carbon olefin methine gắn với nitrogen [δC 139,6; C-2]; 2 carbon thơm mang nhóm thế [δC 126,1; C-3a], [δC 138,4; C-7a]; 4 carbon methine thơm [δC 122,3; C-4], [δC123,6; C-5], [δC 125,0; C-6], [δC 113,1; C-7] (Bảng 4).
Từ dữ liệu phổ 1D-NMR cho thấy hợp chất 6 có cấu trúc của một alkaloid của khung indole. Phân tích các dữ liệu phổ HSQC và HMBC cho thấy trên khung indole có 1 nhóm aldehyde gắn tại vị trí C-3 thông qua tương quan HMBC của proton nhóm aldehyde này với C-3 và C-3a (Hình 3). So sánh dữ liệu phổ của hợp chất 6 với hợp chất indole-3-carbaldehyde cho thấy có sự tương hợp [12].
Vậy hợp chất 6 là indole-3-carbaldehyde.
KẾT LUẬN
Bằng kỹ thuật sắc ký cột trên silicagel pha thường kết hợp với sắc ký bản mỏng điều chế pha thường và pha đảo với các hệ dung môi giải ly khác nhau, đã phân lập được sáu hợp chất tinh khiết từ phân đoạn cao EtOAc của cây cà gai leo.
Trên cơ sở của phổ cộng hưởng từ hạt nhân kết hợp với so sánh tài liệu tham khảo, cấu trúc của các hợp chất này được xác định là ziganein (1), benzoic acid (2), salicylic acid (3), 4- hydroxybenzaldehyde (4), vanillic acid (5) và indole-3-carbaldehyde (6). Đây là các hợp chất lần đầu tiên được tìm thấy trong chi Solanum.
Nguồn: Nguyễn Xuân Hải, Nguyễn Trung Nhân, Nguyễn Thị Thanh Mai (2018) Thành phần hoá học của cây Cà gai leo (Solanum procumbens), tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, 2(6), tr. 134-138.